Với quy trình này, ở giai đoạn 2, cua biển được nuôi trong hộp nhựa đặt ở ao thả cá rô phi. Những cải tiến này góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, hạn chế mầm bệnh trong vùng nuôi thủy sản nước lợ.
Thiết kế ao
Ao nuôi tốt nhất nên có các đặc điểm như: Gần sông, có nguồn nước dồi dào và dễ cấp thoát nước. Nền đáy ao, đầm nên là loại đất thịt pha sét hay cát, không quá nhiều bùn nhão (lớp bùn không quá 20 cm). Đất và nước ít bị nhiễm phèn. Diện tích ao nuôi tốt nhất khoảng 1.000 m2 để thuận tiện trong chăm sóc quản lý, độ sâu 0,8 – 1,2 m, mặt bờ rộng 1 – 1,2 m.
Ao nuôi cá rô phi để phục vụ nuôi cua cũng tùy theo diện tích, chọn khoảng 1.000 m2; Cá rô phi dùng làm thức ăn cho cua và để xử lý cải thiện môi trường hạn chế dịch bệnh.
Thực hiện ủi hoặc nạo vét sạch bùn đáy ao, gia cố bờ ao. Trường hợp bùn ao không nhiều khoảng 10 cm, bón vôi CaO 15 – 20 kg/1.000 m2, phơi đáy ao 2 – 3 ngày sau đó tiến hành bơm nước từ ao lắng vào ao nuôi (tốt nhất nên bơm nước qua túi vải lọc) đạt trên 60 cm, sau 3 ngày tiến hành diệt khuẩn bằng thuốc tím 3 kg/1.000 m3 nước.
Chất chà trong ao để làm chỗ trú ẩn, tránh cho cua ăn lẫn nhau khi lột xác, chà chiếm từ 40% diện tích ao nuôi (chà bằng cây khô, cây khô nhỏ bó thành bó).
Kiểm tra các yếu tố trong ao phù hợp thả nuôi: pH từ 7,5 – 8,5, độ mặn 10 – 15‰, độ kiềm 80 – 120 mg/l, nhiệt độ 28 – 30oC, độ trong 30 – 35 cm.
Thiết kế hộp nuôi cua
Hộp hình chữ nhật: Được làm bằng nhựa Polypropylene. Kích thước: dài 27 cm, rộng 20 cm, cao 40 cm. Thành hộp dày 1,2 – 2 mm. Phần nắp hộp nằm trên mặt nước cao 5,0 – 5,5 cm. Mặt trên có cắt lỗ 3 x 3 cm để thuận tiện trong quá trình cho ăn. Đáy hộp có khoảng 12 lỗ, mỗi lỗ 8 – 10 mm cho nước luân chuyển. Việc thiết kế lỗ thoáng mặt đáy là hình chữ nhật có tác dụng làm giảm cường độ chiếu nắng của mặt trời, lưu thông nước và hạn chế sự rơi lọt thức ăn ra khỏi hộp.
– Cách ghép các hộp thành bè nuôi cố định trên mặt nước:
+ Dùng hai ống nhựa hoặc hai thanh tre thẳng (gọi là khung giàn hộp nuôi cua) để cố định các hộp. Mỗi cạnh bên của hộp được buộc với khung.
+ Giàn hộp được cố định trên bề mặt ao nuôi. Ghép 5 giàn hộp thành một bè, khoảng cách giữa 2 bè là 2 – 3 m.
Các bè nuôi được cố định chắc chắn bằng cọc tre và dây neo tạo thành một hệ thống các bè nuôi. Bố trí khoảng 2.000 hộp cho ao 1.000 m2.
Chọn giống và thả giống
Hiện nay nguồn cua giống cung cấp cho người nuôi chủ yếu từ nguồn sản xuất giống nhân tạo nên chọn giống ở những cơ sở sản xuất cua giống có uy tín, con giống phải đồng cỡ, đồng màu, có phản ứng nhanh lẹ, các phụ bộ đầy đủ. Cua con khi cho vào khay phải phân bố đều, không bị dồn cục và khi đổ nước vào phải phân tán đều khay và khả năng đeo bám giá thể tốt. Cua giống kích cỡ hạt me. Mật độ thả 3 – 5 con/m2 đối với nuôi cua biển giai đoạn 1. Thả giống lúc sáng sớm, trước khi thả nên thuần cua biển thích hợp với nhiệt độ và độ mặn của ao nuôi, thả tập trung ở một khu vực, không nên thả giáp ao để dễ cho ăn và theo dõi.
Cho ăn
Thức ăn cho cua biển giai đoạn 1 là thức ăn công nghiệp loại sử dụng cho tôm sú có hàm lượng đạm từ 40 – 42% sử dụng thức ăn này giúp cua tăng trưởng tốt và hạn chế ô nhiễm môi trường ao nuôi.
Cho ăn 2 lần/ngày lúc sáng sớm và chiều mát, lượng thức ăn dao động 0,3 – 4% trọng lượng thân, tùy từng giai đoạn phát triển của cua. Dùng sàng ăn để kiểm tra khả năng bắt mồi và sức khỏe cua (có thể bỏ từ 2 – 3% lượng thức ăn trong mỗi lần ăn vào sàng ăn và kiểm tra sàng sau 1,5 – 2 giờ).
Bổ sung khoáng chất, dinh dưỡng và Vitamin C, tỏi tươi với liều lượng 5 – 10 g/kg thức ăn để giúp cua tăng sức đề kháng và tăng trưởng tốt.
Chăm sóc, quản lý
Định kỳ 10 – 15 ngày thay 20 – 30% lượng nước trong ao nuôi, sau 1 – 2 ngày tiến hành diệt khuẩn bằng Iodine hoặc BKC (liều lượng tùy theo từng dòng sản phẩm) sau khi diệt khuẩn 2 – 3 ngày tiến hành cấy vi sinh và bón vôi CaCO3 10 – 15 kg/1.000 m3 để cải tạo đáy ao giúp tăng cường vi sinh có lợi phát triển và ổn định các yếu tố môi trường.
Thời gian sau tháng nuôi, cua lúc này có trọng lượng 50 – 70 g thì bắt đầu chuyển dần dần cua sang nuôi cua trong hộp nhựa.
Có 2 cách thu cua như sau: Dùng cần câu cua vào lúc trời mát, phương pháp này ít gây tổn thương cua nhưng tốn nhiều công. Cách thứ hai là dùng lồng bẫy đặt cua vào buổi tối, phương pháp này ít tốn công nhưng thu tập trung, số lượng nhiều nên dễ gây tổn thương cua biển do chúng kẹp cắp nhau.
Thả cua giai đoạn 2
Mở từng hộp, cho mỗi con cua vào một hộp rồi tiến hành buộc chặt hai nửa hộp lại với nhau bằng dây thép không gỉ hoặc dây gân. Kiểm tra mối buộc để cua không thoát ra ngoài.
Do cua biển có tính hiếu động, bản năng tự vệ cao nên các thao tác bắt cua thả vào hộp phải nhanh, chuẩn xác, không để cua cắp phải bất cứ vật gì để có thể làm rụng mất chân càng cua. Thời gian thả cua càng nhanh càng tốt, tránh cua bị mất nước.
Thả giàn hộp xuống ao nuôi: Trước khi thả giàn hộp cua xuống ao nuôi nên phun nước của ao vào các hộp, thời gian phun nước khoảng 3 – 5 phút để cua thích nghi với môi trường (nhiệt độ) nước của ao.
Thường xuyên vệ sinh sạch sẽ hộp nuôi cua, dùng bàn chải nhựa cọ nhẹ mặt ngoài của hộp, tránh làm cua sợ và làm đục nước vùng nuôi cua.
Thường xuyên kiểm tra yếu tố môi trường nằm trong điều kiện cho phép và ổn định. Màu nước xanh đọt chuối hoặc vàng nâu.
Nếu màu nước tảo phát triển mạnh (xanh đậm) và pH > 9 điều chỉnh bằng cách thay nước.
Nếu pH < 7,5 thì nâng pH bằng cách bón vôi CaCO3) liều 10 – 15/1.000 m3.
Kiểm tra độ kiềm để bổ sung khi độ kiềm thấp hơn 80 mg/lít bằng vôi CaCO3 liều dùng 10 – 15 kg/1.000 m3 nước, hay bổ sung canxi vào thức ăn cho cua (Canxium, Canxiphos liều dùng như hướng dẫn) để giúp cua tạo cứng vỏ sau khi lột.
Trong thời gian nuôi thường xuyên quan sát hoạt động của cua biển, quan sát các phụ bộ bên ngoài, cua phải nhanh nhẹn, khỏe, không bị nấm ký sinh bám ngoài vỏ. Nếu cua biển có hiện tượng nhiễm bệnh thì phải tìm nguyên nhân và biện pháp xử lý kịp thời.
Khoảng 10 – 15 ngày thay nước ao một lần để tạo môi trường mới cho cua. Nước thay phải có các yếu tố môi trường pH, độ kiềm, độ mặn, nhiệt độ nằm trong khoảng thích hợp và không chênh lệch quá lớn với điều kiện môi trường ao nuôi để tránh gây sốc cho cua, mỗi lần thay 20 – 30% lượng nước trong hộp.
Cho cua ăn thức ăn công nghiệp đồng thời bổ sung thêm thức ăn tươi như cá rô phi được bắt từ ao nuôi cua trong hộp đã được thả từ trước, tép, nhuyễn thể… Khẩu phần thức ăn có thành phần dinh dưỡng theo hàm lượng đạm đã được xác định.
Khi Cua biển đạt trọng lượng (70 – 80 g/con) đến cua thịt cho ăn từ 2 – 3% trọng lượng thân, cho cua ăn 1 lần/ngày lúc chiều mát. Lượng thức ăn tăng mỗi ngày, thường xuyên kiểm tra khả năng bắt mồi của cua để có chế độ tăng giảm hợp lý.
Thu hoạch
Khi trọng lượng cua đạt cỡ khoảng 350 g/con trở lên thì tiến hành thu hoạch. Nên chọn những hộp có cua đủ tiêu chuẩn kích cỡ theo yêu cầu thị trường, chất lượng cua gạch, cua thịt hay cua cốm 2 da. Dùng dây chuối ngâm nước, dây cói dập ngâm nước hoặc dây nilon mềm để buộc 2 càng và chân cua, không cho cua cử động và cắp lẫn nhau, xếp các con cua đã buộc vào lồng tre, bên trên phủ bao gai, rong biển hay vải ướt để giữ cho cua được mát và ẩm.
Thái Thuận
>> Cần phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe cua nuôi tại mỗi ao, thực hiện đúng chế độ cho ăn để chủ động tạo nên chất lượng thịt cua và gạch cua cho phù hợp mục đích.