Quy trình do PGS.TS Nguyễn Ngọc Phước và TS Lê Văn Bảo Duy (Khoa Thủy sản, Trường ĐH Nông Lâm, Đại học Huế) nghiên cứu thành công; rút ngắn thời gian nuôi luân trùng mà vẫn đảm bảo chất dinh dưỡng, mở ra hướng phát triển mới cho nghề nuôi cá biển ở Việt Nam.
Sự cần thiết
Luân trùng hay còn gọi là rotifer đóng vai trò là nguồn thức ăn cơ bản cho cá giai đoạn ấu trùng và được ứng dụng trong sản xuất giống đối với nhiều loại cá biển có cỡ miệng nhỏ như: cá dìa, cá mú, cá tráp, chình biển… Cá biển ở giai đoạn sắp hết noãn hoàng bắt đầu sử dụng thức ăn bên ngoài, khoảng từ 3 – 5 ngày tuổi, thường có cỡ miệng rất nhỏ. Trong giai đoạn này, đường ruột trong giai đoạn ấu trùng thường thiếu một số loại enzyme tiêu hóa như lipaza, proteaza nên cá phải lấy enzyme từ thức ăn bên ngoài. Do đó, nguồn thức ăn bên ngoài phải đủ nhỏ để phù hợp với kích cỡ miệng của ấu trùng cá mà vẫn đầy đủ thành phần dinh dưỡng để chúng có thể tiêu hóa được.
Đặc điểm Proales similis
Các loại luân trùng thuộc họ Brachionidae thường được nuôi để làm thức ăn cho ngành công nghiệp sản xuất giống cá biển. Tùy theo kích thước mà luân trùng được chia thành ba nhóm: nhóm có kích thước siêu nhỏ SS (90 – 110 μm), loại nhỏ S (100 – 120 μm) và loại lớn L (130 – 340 μm). Năm 2009, Wulur và cộng sự đã phát hiện dòng luân trùng Proales similis có kích thước nhỏ nhất trong các dòng luân trùng với chiều dài 83 µm và chiều rộng 40 µm, nhỏ hơn 38% so với kích thước loài Brachionus rotundiformis. Thành phần dinh dưỡng của Proales similis phù hợp với ấu trùng cá giai đoạn 10 ngày đầu tiên sau nở, làm tăng tỷ lệ sống và sinh trưởng cho ấu trùng cá biển. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất thức ăn tươi sống cho sản xuất giống các loài cá biển có giá trị kinh tế cao Proales similis được nhập về Việt Nam vào năm 2010 và được thử nghiệm nghiên cứu về khả năng tăng sinh khối cung cấp cho ấu trùng cá.
Luân trùng Proales similis
Chuẩn bị thức ăn
Pha trộn tảo với 5 chủng vi khuẩn có lợi theo tỷ lệ: 55% tảo Nannochloropsis oculata, 15% tảo Chlorella vulgaris, 5% vi khuẩn Lactobacillus plantarum BHTS10, 5% vi khuẩn L. brevis BHTS2, 5% vi khuẩn Pediococcus acidilactici BHTS12, 5% vi khuẩn P. pentosaceus BHTS4, 5% vi khuẩn L. fermentum BHTS6 và 5% vi khuẩn Bacillus subtilis BHTS3.
Nhân giống khởi động
Trước tiên, ở bước nhân giống, bổ sung 50 ml luân trùng Proales similis giống với mật độ 200.000 cá thể/lít vào 1 lít nước biển có độ mặn 25‰ trong điều kiện sục khí. Thức ăn được cấp làm 6 lần/ngày với tổng lượng bao gồm 5 ml/lít thức ăn cho luân trùng, 20 mg/lít nấm men bánh mì và hàng ngày thay mới 20% thể tích nước biển sạch có độ mặn 25‰ cho đến khi mật độ luân trùng đạt 500.000 cá thể/lít.
Nhân giống cấp một
Cấy chuyền 1 lít môi trường nuôi thu từ bước nhân giống khởi động sang bể nuôi chứa 10 lít nước biển với điều kiện tương tự ở trên, nhưng tổng lượng thức ăn được cấp là 10 ml/lít, 30 mg/lít nấm men bánh mì. Tiếp tục nuôi cho đến khi mật độ luân trùng đạt 500.000 cá thể/lít.
Nhân giống cấp hai
Cấy chuyền 10 lít môi trường nuôi thu từ bước nhân giống cấp một sang bể nuôi chứa 80 lít nước biển, thức ăn được cấp làm 6 lần/ngày với tổng lượng bao gồm: 15 ml/lít thức ăn cho luân trùng, 40 mg/lít nấm men bánh mì và cũng nuôi cho đến khi mật độ luân trùng đủ tiêu chuẩn 500.000 cá thể/lít.
Nhân giống sản xuất và thu thành phẩm
Chuyển 80 lít môi trường nuôi thu được từ bước nhân giống cấp hai sang bể nuôi chứa 300 lít nước biển, tăng tổng lượng thức ăn lên 20 ml/lít thức ăn, 50 mg/lít nấm men bánh mì và hằng ngày thay mới 30% thể tích nước. Tiếp tục nuôi cho đến khi mật độ luân trùng đủ tiêu chuẩn 500.000 cá thể/lít. Từ khi bắt đầu nuôi đến lúc thu thành phẩm mất khoảng 6 đến 8 ngày, ngắn hơn hẳn so với 11 – 14 ngày theo quy trình cũ.
Thái Thuận