Với tôm, gan tụy được xem là cơ quan quan trọng nhất trên toàn bộ cơ thể chúng. Bảo vệ gan tụy khỏe mạnh thì tôm mới tăng trưởng và phát triển tốt được.
Nguyên nhân gây tổn thương
Cho ăn dư thừa: Khi cho tôm ăn quá nhiều sẽ gây ra gánh nặng và làm tổn thương gan tụy. Do đó, cho ăn hợp lý vừa phải giúp gan tụy hoạt động trơn tru.
Việc sử dụng kháng sinh thường xuyên và sử dụng quá nhiều vitamin cũng vừa là gánh nặng vừa là áp lực cho gan tụy. Thuốc kháng sinh không chỉ điều trị bệnh mà còn sản sinh ra nội độc tố gây hại cho sức khỏe của gan tụy và ruột. Lượng vitamin sử dụng phải phù hợp với khả năng tiêu hóa của ruột và theo tỷ lệ thích hợp không được sử dụng bừa bãi.
Các yếu tố như tôm bị căng thẳng, chất lượng nước thay đổi đột ngột hoặc môi trường ao nuôi kém… cũng ảnh hưởng đến gan tụy.
Khi gan tụy tổn thương
Tiêu hóa: Chức năng tiêu hóa sẽ ảnh hưởng trực tiếp do gan tụy và ruột bị tổn thương. Các cơ quan này lúc đầu sẽ nhỏ lại và gan tụy teo lại. Những cơ quan này chuyển thành màu nhạt, xuất hiện phân trắng và ruột trở nên đỏ.
Giải độc: Gan tụy bị tổn thương không có khả năng phân hủy các độc tố và các hợp chất độc hại. Các chất này không được phân hủy sẽ ảnh hưởng đến ruột và đặc biệt là làm tổn thương nhung mao ruột và làm mất đi một phần của chức năng bảo vệ.
Ngoài ra, gan tụy tổn thương sẽ ảnh hưởng trực tiếp tăng trưởng, sức khỏe của tôm và năng suất vụ nuôi.
Các triệu chứng thường gặp
Vì gan tụy là cơ quan chính có chức năng đào thải độc tố trong cơ thể, nên khi gan bị chai hoặc mất khả năng đào thải thì những độc tố này sẽ ứ đọng lại. Do vậy gan tụy cũng là nơi dễ bị tàn phá bởi độc tố nhất. Quan sát bằng mắt thường, khi bị bệnh gan tụy sẽ đổi màu, đó cũng là dấu hiệu dễ thấy nhất cho biết sự bất thường của cơ quan này. Màu sắc bình thường của gan tụy là màu nâu hơi sẫm, trong giai đoạn đầu khi mới phát bệnh sẽ chuyển sang nâu sáng hơn hay màu đỏ sẫm, khi đó gan tụy có dấu hiệu sưng lên. Giai đoạn giữa gan tụy chuyển sang màu hơi trắng, thấy rõ có sự co rút và teo lại của gan tụy. Đến cuối cùng gan tụy trở nên trắng hoàn toàn và các cấu trúc trong gan đa số đều bị phá hủy.
Bảo vệ gan tụy tôm
Thực hiện các biện pháp tổng hợp gồm:
- Cần có tôm bố mẹ không có EMS để ngăn ngừa EMS trong giai đoạn ấu trùng. Kiểm tra ấu trùng tìm AHPND/EMS bằng PCR trước khi thả vào ao.
- Cải thiện các biện pháp đảm bảo an toàn sinh học trong trại nuôi.
- Thiết lập một quần thể vi sinh vật cân bằng trong hệ thống ao nuôi.
- Quản lý chặt chẽ chất lượng nước và bùn đáy. Loại bỏ bùn thường xuyên.
- Khử trùng bằng clo hoặc ozone để loại bỏ mầm bệnh.
- Theo dõi các thông số ao nuôi thường xuyên.
- Tránh cho ăn dư thừa hoặc quá nhiều và cung cấp lượng thức ăn tối ưu.
- Công nghệ biofloc trong nuôi tôm tỏ ra hữu ích trong việc ngăn chặn sự bùng phát AHPND/EMS.
- Áp dụng hệ thống tuần hoàn khép kín hoặc không thay nước để tránh ô nhiễm.
Bảo vệ gan tôm trong những giai đoạn phát triển của gan tụy: Vitamin C và axit mật hoạt động như những chất giải độc tốt cùng với Vitamin B giúp ích cho việc chuyển đổi cấu trúc gan khi được sử dụng với lượng thích hợp. Thức ăn bổ sung axit mật bảo vệ gan tụy của tôm và nó là hàng rào hóa học quan trọng đối với nội độc tố. Đồng thời cũng có tác dụng kháng khuẩn đáng kể đối với vi khuẩn gram dương. Bổ sung axit mật trong thức ăn cho tôm có thể cải thiện hiệu quả khả năng miễn dịch, giảm áp lực và sửa chữa các tổn thương của gan tụy bằng cách thúc đẩy sự bài tiết của mật và đẩy nhanh quá trình giải độc các chất độc lắng đọng.
Người nuôi cũng có thể sử dụng các loại thảo mộc như diệp hạ châu hay còn gọi là cây Chó đẻ là một loại dược tự nhiên chứa nhiều chất kháng viêm, chống ung thư và đặc biệt là hỗ trợ gan như flavonoids, phenolic, các acid hữu cơ… Chiết xuất từ diệp hạ châu cùng với inositol, sorbitol và một số vitamin cần thiết được tích hợp trong Hepatopan. Với vai trò chính là cải thiện và tăng cường khả năng bài thải độc chất từ thức ăn, tảo và một một số hóa chất xử lý. Đồng thời còn hỗ trợ hệ miễn dịch của tôm, thúc đẩy các quá trình kiểm soát tác động của mầm bệnh một cách mạnh mẽ. Đào thải nhanh chóng lượng kháng sinh tồn lưu.
Phạm Hải