Vụ nuôi tôm vào mùa đồng luôn được xác định là khó khăn, tính rủi ro cao do thời tiết, quản lý môi trường, dịch bệnh hoành hành. Do đó, ngoài việc người nuôi cần đầu tư hơn về thiết bị máy móc, nắm chắc kỹ thuật chăm sóc và quản lý cũng rất quan trọng quyết định đến thành bại của vụ nuôi.
Chuẩn bị ao nuôi
Nhà bạt thiết kế và xây dựng theo địa hình của từng ao nuôi, trước khi nuôi chuẩn bị bạt, kiểm tra khung nhà bạt, nếu nhiệt độ thấp thì tiến hành kéo bạt phủ. Ao có diện tích từ 1.000 – 3.000 m2, thiết kế hình vuông, được lót bạt hoặc bê tông hóa, có lắp đặt hệ thống xiphong đáy. Do nuôi TTCT trong nhà bạt kín gió phải tăng cường hơn hệ thống sục khí đáy và quạt nước để đảm bảo hàm lượng ôxy đầy đủ. Nhà bạt có thể dựng bằng cọc bê tông hoặc bằng cọc gỗ.
Trường hợp nhà bạt dùng cọc bê tông: Cột bê tông có chiều dài 5 – 6 m làm trụ đỡ, chăng dây cáp bọc nhựa tạo khung. Sau đó phủ bạt kín, để phòng tránh xô bạt, cần chăng dây cáp bọc nhựa lên trên.
Trường hợp dùng cọc gỗ: Các cột gỗ có đường kính 6 cm, dùng dây thép (2,4 mm) buộc dựng thành khung cột và nâng đỡ giá lưới. Khoảng cách giữa hai cột gỗ là 1,2 m. Phủ một tấm phim nhựa mỏng lên trên. Khi thiết kế, tạo cửa để dễ dàng để ra vào trong khâu chăm sóc quản lý sau này.
Thiết kế nhà bạt để bảo vệ tôm nuôi mùa đông. Ảnh: Minh Ngọc
Cải tạo ao
Độ sâu ao từ 1,5 – 1,8 m, được lót bạt, có hệ thống cấp thoát nước, ao chứa lắng, ao sẵn sàng… hoàn chỉnh. Trước khi nuôi, cần có biện pháp cải tạo tốt như: vệ sinh hoặc tháo dỡ lớp bạt cũ rồi bón vôi với liều 15 – 17 kg/100 m3, phơi đáy từ 5 – 7 ngày… sau đó cấp nước vào ao khoảng 1,2 – 1,5 m. Xử lý nước và gây màu có thể áp dụng trong các cách sau: Gây màu nước bằng cám gạo, bột cá, bột đậu nành (ủ hỗn hợp trên theo tỷ lệ 2:1:2). Gồm 2 kg cám gạo hoặc cám ngô + 1 kg bột cá + 2 kg bột đậu nành và trộn đều hỗn hợp trên sau đó nấu chín, ủ kín từ 2 – 3 ngày là dùng được. Liều lượng 3 – 4 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi ao lên màu đẹp, đạt độ trong 30 – 40 cm thì tiến hành thả giống. Sau 7 ngày, bổ sung liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu, căn cứ màu nước để bổ sung.
Lưu ý: Không nên sử dụng phân chuồng, phân gà để gây màu nước, vì các loại phân này rất dễ mang theo những mầm bệnh nguy hiểm. Trong quá trình nuôi thường xuyên theo dõi màu nước trong ao để kịp thời xử lý và gây màu nước ổn định. Điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp tránh dư thừa tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại và tảo độc phát triển mạnh khó gây màu nước.
Chọn giống và thả nuôi
Thời gian thả giống từ tháng 8 – 10 âm lịch, tức là vào khoảng tháng 9 – 11 dương lịch, nhằm thu hoạch trước tết để bán được giá cao. Mật độ thả giống nuôi tôm vụ đông cụ thể như sau:
– Nuôi đa cấp: Thả mật độ trung bình 80 con/m2
– Nuôi 1 cấp: Thả 80 – 120 con/m2.
Cách chọn giống: Giống được mua tại cơ sở được phép sản xuất theo quy định của ngành thủy sản, khỏe mạnh, cỡ tối thiểu P12 trở lên, được cơ quan thú y cấp giấy kiểm dịch, được xét nghiệm âm tính với các bệnh trong danh mục các bệnh bắt buộc do cơ quan chuyên môn cấp, có nguồn gốc rõ ràng, khỏe mạnh. Có thể ương giống TTCT trước trong bể ương trong nhà để rút ngắn thời gian nuôi bên ngoài. Mật độ ương: 2.000 – 2.500 con/m2 sau thời gian ương 25 – 30 ngày khi tôm đạt cỡ 1 g/con thì tiến hành chuyển tôm sang ao nuôi thương phẩm.
Khi nước trong ao có nâu nhạt, độ trong từ 30 – 40 cm và tiến hành kiểm tra các yếu tố môi trường đều đạt ngưỡng thích hợp thì tiến hành thả giống. Thời điểm thả thích hợp nhất là vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát, tránh thả lúc nắng nóng hoặc có mưa. Trước khi thả cần ngâm túi giống trong ao nuôi khoảng 15 – 20 phút. Theo dõi diễn biến thời tiết để lựa chọn thời điểm thả phù hợp. Nên thả giống trước khi có không khí lạnh khoảng 4 – 6 tuần (lúc này thời tiết nắng ấm, tôm phát triển nhanh). Thả giống tránh vào thời điểm gió mùa, mưa kéo dài, cần cân bằng nhiệt độ nước trong túi chứa giống và môi trường nuôi trước khi thả.
Chăm sóc và quản lý
Chăm sóc: Thức ăn tôm có nguồn gốc rõ ràng, yêu cầu tỷ lệ đạm 32 – 38%, lipid 4 – 6%, độ ẩm <11%. Được mua tại cơ sở có đăng ký kinh doanh, đảm bảo chất lượng theo quy định, tiêu chuẩn thức ăn thủy sản. Sử dụng thức ăn công nghiệp và cho tôm ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất, đồng thời bổ sung thêm các Vitamin C, các khoáng chất cần thiết… để giúp tôm tăng cường sức đề kháng, khả năng chống chịu và khỏe mạnh. Sử dụng nhá khi cho ăn để quản lý lượng thức ăn. Khi thời tiết có sự thay đổi hoặc tình trạng tôm nuôi bị biến động cần điều chỉnh lượng thức ăn hợp lý.
Quản lý: Dùng chế phẩm sinh học để quản lý môi trường nước được sản xuất EM2 từ EM gốc. Cách làm như sau: Nguyên liệu 1 lít mật rỉ đường hoặc 1 kg mật rỉ đường + 1 lít EM gốc + 45 – 50 lít nước ngọt sạch khuẩn + 2 kg thức ăn số 0 + 10 g muối ăn. Cho vào thùng ủ kín 5 – 7 ngày. Chế phẩm EM2 được sử dụng định kỳ 3 – 7 ngày/lần tùy theo điều kiện màu nước ao nuôi để bón, liều lượng 50 lít EM2/1.000 m3 nước.
Bố trí các dàn quạt trong ao là điều cần thiết để cung cấp đủ ôxy hòa tan. Do nuôi tôm trong nhà bạt sẽ có lượng ôxy khuyếch tán từ không khí ít hơn so với nuôi tôm ngoài trời nên cần sử dụng quạt nước trong ngày nhiều hơn.
Với tôm nuôi trong 2 tháng đầu: Thời gian quạt nước là 6 – 8 giờ/ngày, bắt đầu từ 22 giờ – 6 giờ sáng.
Với tôm nuôi từ tháng thứ 3 trở đi: Thời gian quạt nước là 15 giờ/ngày, bắt đầu từ 16 giờ – 7 giờ sáng.
Bên cạnh đó, cần tiến hành đo các yếu tố môi trường 2 lần/ngày vào lúc 6 giờ và 14 giờ để phát hiện các chỉ số môi trường biến động, nếu vượt ngưỡng thích hợp cần điều chỉnh ngay. Bổ sung các chế phẩm sinh học để ổn định các yếu tố môi trường nuôi.
Phòng trị bệnh
Nuôi TTCT vụ đông là một thách thức lớn về dịch bệnh, do vậy cần đặc biệt lưu ý đến việc phòng và trị bệnh như sau: Khi đi vào nhà bạt, người nuôi cần phải đi ủng và lội qua thùng dung dịch thuốc tím (KMnO4) để khử trùng. Cần phải có ao chứa lắng, ao sẵn sàng để xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi. Cho tôm ăn đầy đủ, bổ sung các khoáng chất và vitamin cần thiết để tăng sức đề kháng. Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường và đảm bảo luôn nằm trong ngưỡng thích hợp. Khi ao nuôi có dấu hiệu bất thường cần báo với các cơ quan chức năng để có biện pháp phòng trị kịp thời.
Hoàng Ngân