Trong nhiều năm qua, nuôi trồng thủy sản trong nước ta phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, việc phát triển nuôi trồng thủy sản nhanh chóng dẫn đến tình trạng môi trường nuôi suy thoái ngày càng trầm trọng. Trong đó các nhân tố sinh học cũng góp phần gây ảnh hưởng không nhỏ.
Tảo Microcystis
Tảo Microcystis hay còn có tên gọi khác là blooming (tảo nở hoa). Nguyên nhân chủ yếu là do tảo Microcystis aeruginosa và M. flosagua trong ngành tảo lam. Thông thường Microcystis sinh sôi phát triển nhiều vào giữa hạ và thời kì đầu thu, nhiệt độ sinh trưởng từ 10-40 độ C, nhiệt độ thích hợp nhất từ 28.8 – 30.5 độ C.
Hiện tượng tảo nở hoa gây ảnh hưởng đến sinh vật đang sống tại ao, hồ. Ảnh: dobio.com.vn
Khi tảo phát triển với số lượng lớn, trên mặt nước sẽ hình thành nên một tầng tảo nở hoa có thể trông thấy được bằng mắt thường, thực hiện chức năng quang hợp sẽ tiêu tốn một lượng lớn CO2 trong nước mà khiến cho pH tăng cao, có thể đạt đến độ pH 10, từ đó ức chế sinh trưởng của cá.
Tảo Microcystis là một loại tảo khó tiêu hóa được đối với loài cá có tính ăn lọc, ảnh hưởng lớn tới sinh trưởng của cá mè và mè hoa giai đoạn cá giống và cá bè. Sau khi tảo Microcystis chết đi sẽ phân giải sản sinh ra Hydroxylamine (NH2OH), H2S, một khi các chất độc hại tích tụ quá nhiều trong nước sẽ cho cá trúng độc mà chết đi.
Tảo giống Prymnesiacee
Tảo giống Prymnesiacee có tên gọi khác là nước gỉ. Nguyên nhân chủ yếu là Prymnesium parvum carter trong ngành tảo kim, là một loại tảo đơn bào. Phát triển nhiều vào mùa xuân, thu, đông. Phổ biến trong những vực nước lợ như ao hoặc hồ chứa nước đất bị nhiễm phèn.
Đặc biệt là xuân thu thời tiết khô hạn, nguồn nước khan hiếm, nhiệt độ nước ao cá thấp, nước nghèo dinh dưỡng hoặc chất lượng nước không tốt, tổng hàm lượng Nitơ thấp, môi trường có độ mặn cao luôn tạo điều kiện cho chúng hình thành quần thể ưu thế. Những ao có Prymnesiacee sinh sôi phát triển mạnh thường có màu vàng nâu cho đến màu nâu đỏ, bao gồm cả màu xanh đen, xanh xám.
Prymnesiacee có thể bài tiết ra nhiều loại chất độc, những độc tố này thông qua mang cá đi vào cơ thể phá hoại hệ thống thần của cá, khiến cho cá bị trúng độc tê liệt. Đối với những chất độc này, cá mè và mè hoa là nhạy cảm nhất. Sau đó là cá trắm cỏ, cá bền, cá chép, cá diếc, cá lăng, cá chình, cá chạch,… Những con cá bị trúng độc đa số tập trung thành bầy đàn chỗ khuất gió, ban đầu rải rác, sau đó trúng độc ngày càng nguy kịch, ngừng hoạt động, mất cân bằng, hô hấp khó khăn, tê liệt rồi chết.
Tảo giáp Peridinium
Tảo giáp Peridinium có tên gọi khác là hồng thủy, nước đỏ, nước gỉ sắt. Nguyên nhân chủ yếu gây nguy hại cho cá trong ao là do có nhiều tảo giáp Peridinium và Gymnodinium, ưa sống trong môi trường nước có chứa nhiều chất hữu cơ, độ cứng lớn và độ kiềm nhỏ, sinh trưởng nhiều vào thời kỳ ấm áp, sau khi cá ăn phải tảo giáp sẽ sinh ra bọt khí trong đường tiêu hóa, nghiêm trọng hơn sẽ ngộ độc rồi chết.
Trong quá trình sinh trưởng phát triển và sau khi chết đi của hai loại tảo giáp này sẽ sinh sản ra nhiều loại độc tố, khiến cho thần kinh của cá tê dại, chuyển hóa mất cân bằng và hô hấp khó khăn, cuối cùng cá sẽ chết. Tảo giáp đa số có màu vàng nâu, khi sinh sôi phát triển mạnh, dưới bức xạ ánh sáng mặt trời sẽ hiện lên màu đỏ nâu, còn gọi là “hồng thủy” và “nước gỉ sắt”. Tảo giáp rất nhạy cảm với biến đổi của thời tiết, nếu như nhiệt độ nước, độ pH thay đổi đột ngột sẽ khiến cho chúng chết hàng loạt.
Tảo giáp Peridinium có tên gọi khác là hồng thủy tiết ra nhiều độc tố gây hại
Tảo dạng sợi
Tảo dạng sợi có tên gọi khác là rêu hoặc rêu xanh. Đó là tên gọi chung của các loại tảo sợi thường gặp trong ao nuôi, bao gồm có Spirogyra sp., Zygnema sp., sinh trưởng phát triển vào lúc mùa xuân thời tiết ấm áp. Mối nguy hại chủ yếu của tạo dạng sợi là quấy rối tôm con, tôm giống đến chết. Tảo lục dạng sợi bám trên bề mặt cơ thể tôm, cua, ảnh hưởng đến sinh trưởng và giá trị thương phẩm của tôm cua.
Thứ hai là tiêu hao chất dinh dưỡng trong nước, làm cho nước nghèo dinh dưỡng, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát triển của thức ăn tự nhiên. Thứ ba là làm thối rữa các loại tảo chết trong nước, ảnh hưởng đến chất lượng nước, gây ra thiếu oxy và nổi ao.
Thứ tư là rêu xanh trôi nổi trên mặt nước hoặc bám dưới đáy ao, ảnh hưởng đến việc bắt mồi bình thường của tôm cá. Thứ năm là bám trên lồng nuôi, bịt tắc các lỗ lồng nuôi, không có lợi cho việc trao đổi nước trong và ngoài lồng nuôi, khiến cho chất lượng nước trong lồng nuôi bị suy thoái.
Cyzicus sp.
Cyzicus sp. thuộc ngành Arthropoda ( động vật chân đốt ), lớp Crustacea (giáp xác), bộ Ostracoda, đơn tính, ưa sống trong môi trường đáy bùn nước nồng, độ pH thích >7, khi nhiệt độ vào khoảng 20-25 độ C, chủ yếu bắt những thực vật phù du cỡ nhỏ, đôi khi có luân trùng, vụn bã hữu cơ,…
Vào thời điểm đầu hạ là thời kỳ phát triển thịnh vượng của nó, gây chết nhiều con giống. Các chủng loại gây nguy hại chính cho cá gồm có Cyzicus sp. tròn và Cyzicus sp. dẹt. Cyzicus sp. xuất hiện nhiều trong ao khiến cho nước đảo lộn và thay đổi màu sắc, nước trở nên đục, cá con không thể hoạt động và bắt mồi bình thường, và Cyzicus sp. tiêu hao một lượng lớn oxy hòa tan trong ao, có lúc còn gây nên hiện tượng tràn ao. Ngoài ra, do Cyzicus sp. lấy dinh dưỡng trong nước khiến cho con giống vì thiếu dinh dưỡng dẫn đến phát triển chậm, thậm chí là chết hàng loạt.
Cyclops
Cyclops là một loài động vật giáp xác cỡ nhỏ, cơ thể dài khoảng 1mm. Phạm vi phân bố rộng, số lượng đông, khi nhiệt độ nước >18 độ C, Cyclops phát triển rất nhanh trong ao cá có đủ dinh dưỡng. Cyclops sẽ cắn chết cá giống hoặc tranh ăn với những con tôm giống mới lột vỏ, là một trong những dịch hại chủ yếu trong quá trình sinh trưởng phát triển của tôm và cá giống.
Copepod Cyclops là loài giáp xác nhỏ được tìm thấy trong ao nước ngọt
Thứ hai các loài động vật phù du chân trèo như Cyclops quá nhiều, sẽ rất khó để gây màu nước ao nuôi, khiến cho thiếu hụt tảo đơn bào, ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá. Khi các động vật phù du loài chân trèo như Cyclops và loài chi giác cỡ lớn cùng sinh sôi phát triển, chúng sẽ phá hoại cân bằng sinh thái của sinh vật phù du trong nước, làm tăng hàm lượng NH3 trong nước ao, thiếu oxy, ảnh hưởng đến sinh trưởng của các loài cá.
Kyllingga brevifolia
Kyllingga brevifolia là ấu trùng của Dytiscidae (cà niễng), những loài thường gặp trong ao nuôi có: ấu thể của Dytiscidae, cybister ventralis, Hydaticus. Hình dạng của Kyllingga brevifolia có dạng trụ tròn, có một cặp hàm giống như cái kìm, ấu trùng có màu trắng xám, sau khi lột xác trưởng thành đạt cỡ khoảng 3cm, phần đuôi thường nổi lên mặt nước để hô hấp.
Kyllingga brevifolia là một loại sâu hại sống dưới nước rất hung dữ và ham ăn, thường sử dụng các hàm lớn của mình để sắp chết những con giống và hút hết những dịch lỏng trong cơ thể của nó, tầm tháng 5-6 thời kỳ phát triển thịnh vượng của nó, chủ yếu gây nguy hiểm cho cá giống dưới 3cm vào mùa hè.
Phù dưỡng hóa
Do các muối dinh dưỡng trong nước tăng lên khiến cho tảo và thực vật thủy sinh trong nước cũng sinh sôi nhanh hơn, làm cho chất lượng nước kém đi. Mối nguy hại của hiện tượng nước phú dưỡng.
– Tảo trong nước bài tiết, giải phóng ra các chất độc hại, làm chất lượng nước suy giảm.
– Ảnh hưởng đến môi trường sinh thái nước ao hồ, giảm tính ổn định và đa dạng sinh học, khiến cho các và các loài sinh vật thủy sạ khác tử vong.
– Tác động tới tính trạng cảm quan trong nước. Tảo lục và tảo lam sinh sôi phát triển mạnh trong môi trường nước phú dưỡng, màu nước sẽ đậm lên, nước đục và độ trong giảm, đồng thời có mùi hôi thối.
– Ảnh hưởng đến việc sử dụng tài nguyên sinh vật trong ngư nghiệp, giá trị kinh tế giảm.
Ốc
Các loài ốc nước ngọt thường gặp có: Cipangopaludina chinensis, Lymnaea, ốc bươu vàng, Oncomelania,…, thuộc ngành Mollusca (động vật thân mềm), lớp Gastropoda (một mảnh vỏ), sống trong vực nước nông như ao, ruộng và hồ, kênh mương,.. sức sinh sản nhanh, khi phát triển nhiều không chỉ làm tăng mật độ trong ao nuôi, tiêu oxy trong nước và cạnh tranh thức ăn với các loài động vật phù du. Khi ốc đinh sinh sôi nhiều còn gây nguy hiểm cho sức khỏe của con người và gia súc, ốc còn là một loài kí sinh trung gian của trematoda (sán lá) trước khi xâm nhập vào cơ thể cá.
Ốc đinh trong ao nuôi. Ảnh: sando.com.vn
Nước nghèo dinh dưỡng
Nguyên nhân do hàm lượng sinh vật phù du trong nước quá ít, thiếu đi một vài nguyên tố dinh dưỡng, các nhân tố lý hóa trong nước không phù hợp để thức đẩy sinh vật phù du phát triển. Đối với những ao mới đào, nguyên nhân là do chất lượng đáy là đáy cát, đáy đất vàng, đất đỏ nghèo sinh dưỡng, ốc, trai, hến trong ao phát triển phong phú, thực vật thủy sinh tăng trưởng mạnh, ao nuôi bị rỉ nước,.. cho dù là bón phân, nước cũng khó mà giàu dinh dưỡng hơn hoặc nước dinh dưỡng sẽ nhanh chóng trở nên nghèo dinh dưỡng, chất lượng nước như thế này gọi là nước nghèo dinh dưỡng.
Nước nghèo dinh dưỡng có màu trong, màu xanh nhạt hoặc màu vàng nhạt, độ trong >30 cm, điều kiện oxy hòa tan tốt, chất lượng nước nghèo dinh dưỡng không có lợi đối với nuôi những loài cá ưa sống trong nước giàu dinh dưỡng.
Suy thoái môi trường do tác nhân sinh học có thể gây ra những tác động nguy hiểm cho hệ sinh thái và sức khỏe con người. Để ngăn chặn, cần thiết phải tăng cường quản lý nguồn tài nguyên tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, và cung cấp khả năng sử dụng các phương pháp nuôi trồng bền vững.