Hiện nay, nguồn cung cấp giống cá lóc đầu nhím cho thị trường miền Bắc chủ yếu chuyển từ miền Nam và Trung Quốc, do đó nguồn giống không chủ động, khó kiểm soát được chất lượng giống và dịch bệnh.
Bãi giống
Bãi lấy giống được lựa chọn thường là những nơi có vẹm trưởng thành sinh sống, nơi có nguồn nước chảy nhẹ, ấu trùng không bị phân tán xa, chất đáy tốt. Nơi có dòng nước chảy mạnh, việc thả vật bám thu con giống sẽ gặp nhiều khó khăn, mặt khác ấu trùng phù du cũng không thể sống ở những nơi có dòng nước chảy mạnh. Do đó, lựa chọn bãi lấy giống còn phải dựa trên tập tính sống của ấu trùng, tầng nước phân bố của nó.
Mùa vụ lấy giống
Mùa vụ lấy giống phụ thuộc vào mùa vụ sinh sản của vẹm xanh, khả năng vớt giống phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm. Thông thường, mùa vụ vớt giống diễn ra vào mùa vụ đẻ rộ nhất của vẹm trưởng thành. Vẹm đẻ rải rác quanh năm khoảng từ tháng 6 đến tháng 2 năm sau, rộ nhất vào tháng 10 – 12. Do đó có thể xác định thời điểm thu con giống đạt cao nhất.
Điều kiện nuôi
Vùng nuôi vẹm phải đảm bảo các điều kiện: Độ mặn của nước dao động từ 18 – 32‰ (kể cả trong mùa mưa), dòng chảy 0,2 – 0,5 m/s, độ trong từ 2 m trở lên. Độ sâu từ 0,5 m xuống -1 m so với số 0 hải đồ (thấp hơn so với mép sóng từ 4 – 5 m). Môi trường sống của vẹm xanh rất thích hợp các thủy vực kín, ít sóng gió và có dòng chảy lưu thông. Chất lượng nước giàu thức ăn tự nhiên, có độ mặn từ 20 – 30%; nhiệt độ 23 – 300C; pH 7,5 – 8,5; ôxy hòa tan 4 – 5 mg/l.
Hình thức nuôi dây treo
Có nhiều phương pháp nuôi khác nhau như cọc bê tông, cọc gỗ, treo băng bè hoặc dây treo… Nuôi treo bằng phao hoặc bằng bè được sử dụng rộng rãi vì phù hợp ở những vùng có sóng gió, dễ di chuyển và thao tác.
Chuẩn bị vật liệu, dụng cụ: Vải màn hoặc lưới cước có mắt lưới nhỏ tương tự vải màn hoặc nylon mỏng; dây làm vật bám (dây nilon ô = 2 – 3 cm); dây treo ô = 1 cm); cọc làm giàn (cọc gỗ ô = 10 – 15 cm, dài 2 – 2,5 m); cây làm xà treo (cây gỗ ô = 10 cm); dây kẽm buộc giàn 2,5 mm; các dụng cụ như dao, cưa, kìm, kéo, vồ.
Túi thả giống: Vải màn hoặc săm cước được cắt nhỏ và may thành các ống lưới có đường kính 4 – 5 cm, dài từ 30 – 40 cm. Nếu dùng nilon thì dán thành các ống túi có kích thước như trên, sau đó dùng kéo cắt thủng túi có đường kính 2 – 3 mm. Cắt dây nilon có đường kính 2 – 3 cm làm vật bám thành các đoạn có chiều dài khoảng 50 cm. Luồn dây làm vật bám vào trong lòng các ống lưới hoặc túi nilon, sau đó buộc chặt đáy túi vào đầu dây phía dưới. Đầu dây phía trên được buộc gập lại để tạo thành khuy để luồn dây treo. Cắt dây treo thành các đoạn có độ dài khoảng 1 – 1,5 m. Luồn một đầu dây vào khuy của dây bám và buộc chặt lại. Đầu dây còn lại dùng để treo vào xà hoặc bè.
Giàn treo: Dùng cọc đóng thẳng hàng theo chiều vuông góc với dòng chảy của nước. Khoảng cách mỗi cọc từ 1,5 – 2 m (làm vào lúc thủy triều ở mức 0 – 0,3 m). Dùng dây thép buộc chặt các cây xà ngang qua các đầu cọc, xà treo cách mặt bãi khoảng 1 – 2 m.
Kỹ thuật thả giống: Thả giống cỡ 1 cm, mỗi túi thả khoảng 1.000 con giống, sau đó buộc chặt miệng túi vào dây bám. Treo túi lên xà hoặc bè, nếu treo trên bè thì thả túi xuống độ sâu 2,5 – 3,5 m.
Quản lý và chăm sóc: Sau khoảng 5 – 10 ngày, kiểm tra thấy vẹm đã mọc tơ chân và bám vào dây nilon thì dùng kéo hoặc dao cắt bỏ túi. Thường xuyên kiểm tra giàn treo và dây treo, nếu có sự cố phải được sửa chữa ngay. Khi vẹm lớn lên, nếu thấy mật độ quá dày thì dùng dao nhỏ hoặc kéo cắt tơ chân một số cá thể để tỉa chùm vẹm thưa hơn. Số cá thể cắt ra lại cho vào túi như khi thả giống để tạo ra những dây treo giống mới. Luôn vệ sinh dây treo, cọc và xà vì các loại hà, sun khi bám vào cọc và xà có thể làm cọc và xà bị gãy. Cá ăn rêu có thể cắn đứt dây treo, một số loài cua biển là những địch hại có thể ăn thịt vẹm.
Hình thức nuôi cọc
Vật liệu: Máng bám giống: Máng xi măng hoặc bể nhựa có quy cách dài 2 – 3 m: rộng 0,5 m: cao 0,5 m. Có thể tạo ra máng bằng cách dùng gỗ tạp đóng khung máng có quy cách như máng xi măng và trải nilon vào trong để chứa nước. Dây bám giống: Chão bẹ dừa hoặc chão cói có đường kính = 1,5 – 2 cm, dài 2,5 – 3 m. Cọc: cọc bằng gỗ khô, loại gỗ không có nhựa độc. Chiều dài cọc 2 – 2,5 m: 4> = 11 – 15 cm.
Cho giống bám vào dây: Đưa nước biển sạch và có độ mặn tương đương độ mặn nơi nuôi vào máng; sục khí; thả giống vào máng; đưa dây bám giống vào đáy máng theo chiều dài của máng và sợi dây nằm giữa các lớp vẹm giống ỏ dưới đáy; chờ từ 3 – 5 ngày cho vẹm mọc tơ chân bám vào dây thì lấy dây chuyển ra bãi nuôi.
Quấn dây vào cọc nuôi: Cọc được đóng vững chắc xuống bãi. Mỗi cọc sẽ được quấn từ 1 – 2 dây đã có giống bám. Quá trình phát triển không những tơ chân của vẹm chỉ bám vào dây mà còn bám cả vào thân cọc.
Chăm sóc: Thường xuyên kiểm tra để điều chỉnh độ vững chắc của cọc. Nếu thấy mật độ vẹm quá dày thì dùng dao nhỏ hoặc kéo cắt các chân tơ của từng cả thể làm cho mật độ giảm xuống. Các cá thể cắt ra được đưa vào máng bám và tạo ra những dây mới cho các cọc mới.
Thu hoạch
Dùng dao hoặc kéo cắt chân tơ của từng cá thể (không dùng tay bứt ra từng con). Vẹm nuôi trên cọc, trên giàn, trong rổ cách xa lớp đáy bùn bẩn nên rất sạch. Khi vẹm đạt cỡ 8 cm (chiều dài vỏ) trở lên, vào thời kỳ đó tuyến sinh dục phát triển mạnh nhất, nếu mở con vẹm thấy đỏ rực, vàng rộm hay vàng sữa là thu hoạch được.
Hoàng Yến