Các loài cá nước ngọt bản địa như cá rô đồng, cá lóc, sặc rằn, cá tra…được nuôi nhiều tại các tỉnh Miền tây như Hậu Giang, Đồng Tháp, An Giang, Trà Vinh hay các tỉnh Miền Đông như Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước…
Đa số các mô hình nuôi các loài cá kể trên đều ứng dụng kỹ thuật nuôi thâm canh, sử dụng nguồn cá giống từ sản xuất nhân tạo, thả nuôi cá giống với mật độ cao (500.000 – 1.000.000 bột/1.000 m2 đối với cá rô đồng, 100 – 200 cá giống /m2 đối với cá lóc, 80-120 con/m2 đối với cá tra giống cỡ 30 con/kg…).
Nuôi cá theo mô hình thâm canh, sử dụng thức ăn công nghiệp dạng viên, bổ sung dinh dưỡng suốt vụ nuôi kéo dài từ 5 – 7 tháng tuỳ loại cá thả nuôi. Các loài cá nuôi theo mô hình thâm canh, thường phát triển nhanh, đồng đều, tỷ lệ sống cao, đạt năng suất, sản lượng thu hoạch lớn.
Do nuôi thâm canh, thả cá bột hoặc cá giống mật độ cao, nên lượng chất thải như phân cá, xác cá chết rất lớn. Do định lượng thức ăn không hợp lý, gây dư thừa, tích tụ nhiều chất hữu cơ nơi đáy ao.
Mặt khác, chất lơ lửng, phù sa, lợn cợn, lắng tụ dần qua thời gian nuôi, làm đáy ao hình thành khí độc nhanh chóng. Tảo độc như tảo lam, tảo mắt, tảo đỏ… phát triển mạnh trong ao nuôi nhất là khi dư thừa thức ăn, xác tảo tàn, lắng tụ xuống đáy, hình thành khí độc hại.
Lượng chất thải kể trên thải ra ngoài môi trường nước, đáy ao nuôi rất lớn, làm nguồn nước nuôi cá mau bị ô nhiễm. Đáy ao nuôi hình thành khí độc nhanh, sau khi triển khai vụ nuôi được 1 – 2 tháng, khí độc có xu hướng vượt ngưỡng chịu đựng của cá.
Do nuôi thâm canh, thả cá bột hoặc cá giống mật độ cao, nên lượng chất thải như phân cá, xác cá chết rất lớn. Ảnh: khuyennonghaiphong.gov.vn
Cùng với nguồn nước ao nuôi ô nhiễm, tảo tàn, khí độc tăng với hàm lượng cao dần, kết hợp thời tiết, khí hậu, biến động bất thường…cá giảm ăn, sức khoẻ cá nuôi suy giảm nhanh. Các loài địch hai như nấm, ký sinh trùng, xâm nhập vào ao nuôi. Địch hại gia tăng số lượng, tập trung tấn công cá nuôi.
Khi nấm, ký sinh trùng, tấn công cá, gây ra các vết thương trên cơ thể cá, cá bị suy nhược sức khoẻ, hình thành các vết thương trên cơ thể, tạo điều kiện cho vi khuẩn tấn công từ môi trường nước vào bên trong nội quan cá. Các vi khuẩn như Edwardsiella ictaluri, Aeromonas sp, Streptococcus…là đối tượng trực tiếp gây tử vong cho cá nuôi.
Biểu hiện thường thấy khi cá nuôi bị nấm, ký sinh trùng, hay vi khuẩn tấn công đó là da cá chuyển từ màu sáng sang tối sẫm, đen hoặc trắng nhạt, có hiện tượng xuất huyết dưới da, cơ thịt bưng mủ, ghẻ, hoại tử. Mang tưa rách, lá mang, tia mang, chuyển từ màu hồng đỏ sang hồng nhạt hoặc trắng, mang bị rách, tưa, cụt từng mảng. Vảy cá xù lên, bong ra từng mảng, xuất hiện vết thương ăn sâu vào cơ thể cá, nơi vảy tổn thương. Mắt cá lồi dần, chuyển từ trong sang đục, bưng mủ. Hậu môn sưng to, lồi ra ngoài, xuất huyết hậu môn. Bụng cá trương to, tiến hành giải phẩu nội quan cá, cho thấy nội tạng xuất huyết, nội quan viêm, tim, gan, tuỵ, bóng hơi, túi mật,… sưng tấy.
Các bệnh thường gặp ở cá lóc do vi khuẩn, nấm gây ra,… Ảnh: traicagiong.com
Hơn nữa, thận cá chuyển từ màu đỏ sang nâu đen hoặc trắng nhạt. Ruột cá ít hoặc không có thức ăn, thành ruột viêm đỏ, xuất huyết. Nấm, ký sinh trùng, bám nhiều bên ngoài vảy, da, mang, vây, mắt…nhiều ký sinh trùng ký sinh bên trong nội tạng cá như gan, ruột, túi mật. Cá bơi lội, di chuyển khó khăn, hay tấp mé bờ, cá tụ tập nhiều nơi có nguồn nước từ bên ngoài chảy vào ao. Cá bơi lờ đờ trên mặt nước, cá búng, nhảy lên khỏi mặt nước, cá hay lao nhanh về phía trước, bơi lội vô hướng, xoay tròn, lắc mình. Cá lên đớp móng chậm, lâu lặn xuống. Cá nhả bong bóng lâu tan, do nhiều nhớt, dịch, trong miệng, trong đường tiêu hoá của cá không được làm sạch. Cá giảm hoặc bỏ ăn, cá chết số lượng tăng dần. Nguồn nước ô nhiễm, keo đặc, có nhiều bọt lâu tan nổi trên mặt nước, nước ao bốc mùi tanh, hôi thối.
Ký sinh trùng xâm nhập vào ao nuôi hay nấm hình thành trong ao nuôi bằng nhiều con đường khác nhau. Có thể kể đến các ký sinh trùng như trùng mỏ neo Lernaea, giáp xác chân chèo Ergasilids, rận cá Argulidae, trùng mặt trời Trichodina…
Đối với ký sinh trùng, chúng luôn hiện hữu trong nguồn nước lấy vào ao, hoặc do việc cải tạo, xử lý ao, xử lý nước, trước khi nuôi cá không triệt để, mầm bệnh vụ nuôi trước còn tồn tại trong nước, đáy ao, bùn đáy…
Ký sinh trùng có từ nguồn cá bột, cá giống, không được tắm, ngâm, xử lý kỹ trước khi thả xuống ao nuôi. Do chim, cò, động vật khác, lây nhiễm từ nơi cá nhiễm ký sinh trùng sang ao cá khoẻ…
Đối với nấm, ngoài các nguyên nhân hình thành trong ao nuôi tương tự như ký sinh trùng, việc định lượng thức ăn không hợp lý gây dư thừa là điều kiện để nấm hình thành, phát triển trong ao.
Mặt khác, do sử dụng hoá chất, tảo tàn, là môi trường tốt để nấm phát triển. Trong quá trình cá sinh sản, những trứng ung, hư, không được thụ tinh, nấm phát triển trên các trứng hư rất nhanh, lây lan sang trứng chưa nhiễm, lây cho cá con, cá giống…Nấm Leptolegnia, Aphanomyces, Saprolegnia, Alphanomyces Invadans và Achlya, là các nấm dạng sợi, thuộc nhóm nấm bậc thấp, cấu tạo dạng sợi, nấm đa bào nhưng không có vách ngăn. Bào tử nấm có tiên mao, có thể vận động trong nước, nên khả năng lây lan bệnh rất cao.
Nấm Aphanomyces ivadans và Nấm Saprolegnia spp. Ảnh: Hóa chất nhà nông
Cá nuôi bị nấm, ký sinh trùng tấn công, rất khó điều trị dứt điểm, do liên quan nguồn nước và chất lượng nước kém, biến động thông số môi trường, kỹ thuật quản lý và chăm sóc cá chưa phù hợp, diễn biến thời tiết và khí hậu không thuận lợi.
Khi cá bị nấm tấn công hay nhiễm ký sinh trùng, trong thời gian ngắn, khả năng miễn dịch cá suy giảm nhanh, sức khoẻ cá giảm sút trầm trọng. Việc điều trị thường kéo dài, hiệu quả điều trị phụ thuộc nhiều yếu tố liên quan kể trên, ngoài ra, thời gian phát hiện bệnh, phác đồ điều trị là những mấu chốt quan trọng, ảnh hưởng đến đến kết quả điều trị.
Cần tuân thủ kỹ quy trình cải tạo, xử lý ao, nguồn nước, trước khi nuôi. Nước thay vào ao cần lắng, lọc, xử lý kỹ trước khi sử dụng. Khi phát hiện cá nuôi bị nấm, ký sinh trùng tấn công, người nuôi cần giảm 50% lượng thức ăn sử dụng trong ngày, hoặc ngưng cho cá ăn 1- 2 ngày, tiến hành thay 30 – 50% lượng nước ao.
Nguồn nước thay vào ao nuôi, phải được xử lý kỹ bằng thuốc tím KMnO4, Iodine, hay BKC…trước khi sử dụng. Sau khi thay nước, dùng vôi nông nghiệp CaCO3, Sulphat đồng, Oxy già… xử lý nước ao nuôi. Trường hợp tỷ lệ cá nhiễm nấm nhiều, dùng Xanh methylene kết hợp Bronopol, liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Khi cá nhiễm ký sinh trùng, dùng các thuốc trên sổ 1- 2 ngày, tuỳ thuộc sức khoẻ cá. Sau khi sổ ký sinh trùng ra ngoài môi trường, cần sử dụng các hoá chất như Iodine (I2), Trichlorocyanuric axít – TCCA (C3N3O3Cl3), Chloramine B C6H5SO2NClNa để diệt chúng. Trường hợp cá nuôi đã bị vi khuẩn tấn công vào nội quan, khi sử dụng kháng sinh, hộ nuôi cần được tư vấn từ các kỹ thuật viên, thực hiện kháng sinh đồ, xác định độ nhạy kháng sinh với vi khuẩn, nhằm điều trị cho kết quả cao hơn.